I. TỔNG QUÁT VỀ KIẾN TRÚC NGÔI CHÙA VIỆT NAM.
Việt Nam hiện nay có khoảng 14.500 ngôi tự viện Phật giáo trên khắp đất nước của ba Hệ phái chính là Bắc tông, Nam tông và Khất sĩ. Ở miền Bắc chỉ có ngôi chùa Phật giáo Bắc tông.
Ở miền Trung (từ Quảng Trị trở vào) và miền Nam, ngoài ngôi chùa Phật giáo Bắc tông, còn có ngôi chùa Phật giáo Nam tông Việt, Nam tông Khmer và ngôi tịnh xá Phật giáo Khất sĩ.
Kiến trúc ngôi chùa Việt Nam rất đa dạng. Nhiều tác giả đã phân loại chùa và giới thiệu các kiểu kiến trúc của chùa Việt Nam như sau:
Các tác giả Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long trong sách Chùa Việt Nam (NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993) cho biết tên các kiểu chùa truyền thống thường được đặt theo các chữ Trung Quốc có dạng gần với bình diện kiến trúc chùa. Đó là kiểu chữ Đinh, kiểu chữ Công, kiểu chữ Tam và kiểu chữ nội Công ngoại Quốc. Tên những kiểu chùa này chỉ dựa vào cụm kiến trúc chính. Trong chùa, còn có những ngôi nhà khác như nhà tổ, nhà tăng, gác chuông, tháp, tam quan … Ngoài người Kinh, còn có chùa ở một số dân tộc thiểu số. Chùa của người Mường làm bằng tranh tre đơn giản. Chùa người Khmer được xây dựng đẹp, có bộ mái ảnh hưởng Campuchia và Thái Lan. Chùa người Hoa cũng có sắc thái kiến trúc riêng. Tính đa dạng của kiến trúc chùa Việt Nam càng tăng khi xuất hiện những ngôi chùa hiện đại được xây dựng gần đây.
Tác giả Trần Lâm Biền trong sách Hỏi và đáp về văn hóa Việt Nam, tái bản lần 3 (NXB. Văn hóa dân tộc và tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội, 2000) cho biết chùa Việt thường dàn trải theo mặt bằng với nhiều đơn nguyên kiến trúc. Chùa bao giờ cũng được dựng ở mảnh đất thu giữ được khí thiêng của trời đất: đất cao, tươi nhuận, có dòng chảy hoặc hồ ao trước mặt. Mặt chùa quay hướng Nam, đó là hướng bát nhã (trí tuệ), phát triển thiện tâm. Mở đầu cho ngôi chùa là tam quan. Qua tam quan, con đường Nhất chánh đạo dẫn vào thế giới Phật. Mở đầu hệ thống chùa chính là tòa tiền đường, nơi đây các Phật tử ngồi tụng kinh để rèn tâm kiến tính nhằm xây dựng lòng thiện theo con đường từ bi của đức Phật. Bàn thờ Phật nằm ở gian giữa chùa, gian này mở lùi về phía sau, tạo cho chùa chính có kết cấu hình chữ Công hay chữ Đinh. Do cửa chùa luôn rộng mở với mọi chúng sinh, nơi thờ không bao giờ bị che chắn, vì vậy nơi đây gọi là thượng điện. Bao quanh hai bên chùa nhiều khi còn có hai dãy hành lang và phía sau là nhà hậu. Tòa nhà hậu thường để thờ tổ chùa, thờ mẫu, thờ những người có công với chùa; đồng thời làm nơi ở cho chư tăng, nhà khách, nhà bếp … Ngoài ra, hầu như chùa nào cũng có tháp. Số lượng tầng gắn với cương vị thuộc kết quả tu hành trong Phật đạo.
Các tác giả Nguyễn Thế Long, Phạm Mai Hùng trong sách Chùa Hà Nội (NXB. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1997) cho biết những ngôi chùa Việt Nam trong bốn mùa đều mang một vẻ đẹp kín đáo thầm lặng, lắng đọng sâu trong tâm hồn người hướng về điều thiện. Vẻ đẹp của ngôi chùa Việt Nam trước hết ở chỗ hài hoà với cảnh quan môi trường chung quanh. Chùa Việt Nam thường gắn bó với sông nước, hồ ao. Trước khi vào chùa lễ Phật, khách thường phải qua cổng tam quan. Qua tam quan, cõi tục và cõi trần như đã được phân chia. Bố cục mặt bằng của các ngôi chùa thường lấy sự cân xứng đăng đối làm phương tức chủ đạo. Các chùa thời Lý thường lấy sự đăng đối quy tụ về một điểm ở giữa. Chùa Một Cột là một điển hình. Các chùa được xây dựng từ thời Trần về sau thường được bố cục đăng đối theo một trục dài từ cổng tam quan vào đến nhà tổ phía sau cùng. Các nhà thường được xây dàn hàng ngang một dãy (dân quen gọi là chữ Nhất), hai hàng ngang (chữ Nhị), ba hàng ngang (chữ Tam). Có chùa được bố cục theo kiểu chữ Đinh (như chữ T), theo kiểu chữ Công (như chữ H nằm ngang), hoặc kiểu nội Công ngoại Quốc (bên trong là chữ H nằm ngang và bên ngoài gồm các nhà bao bọc tạo nên một hình vuông hay chữ nhật). Các chùa ở Nam Bộ thường được xây theo kiểu chữ Nhất. Quần thể kiến trúc chùa ngoài việc bao gồm những dãy nhà, còn có những kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao như các tháp, chuông và gác chuông, lầu khánh và các bia cùng nhà bia.
Tác giả Chu Quang Trứ trong sách Di sản văn hóa dân tộc trong tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam (NXB. Mỹ thuật, Hà Nội, 2001) cho biết ở những thế kỷ đầu Công nguyên thì giáo đường của Phật giáo mới chỉ là những am miếu mà nhà sư Khương Tăng Hội gọi là miếu đường hoặc tông miếu. Bước vào thời tự chủ, chùa tháp được xây dựng khắp nơi “chỗ nào có người ở tất có chùa tờ Phật” (bia chùa Thiên Phúc). Trong nước, chỗ nào “hễ có cảnh đẹp núi non thì đều xây dựng chùa chiền” (bia chùa Linh Xứng). Trong chùa thời Lý, tháp đóng vai trò chính, là cái đền Phật giáo. Những cây tháp phần lớn ở trên những quả núi đột khởi giữa đồng bằng, hoà nhập với các dãy nhà và cây cối chung quanh, tạo cả một tổng thể kiến trúc vừa vươn cao vừa trải rộng, thiêng liêng mà vững chãi. Một loạt chùa khác được xây dựng ở sườn đồi, trườn lên và trải ngang, hoà vào cảnh đẹp tự nhiên; cũng như chùa xây ở nơi bình địa, chiếm một diện tích khá rộng, bố cục đăng đối, gần với xóm làng, khang trang mà ấm cúng. Đến thế kỷ XVII, nhiều nhà quý tộc đã xuất tiền để mở chùa to lớn, gồm nhiều nếp nhà vòng trong vòng ngoài theo kiểu nội Công ngoại Quốc phát triển cả về chiều ngang và chiều dọc, gắn bó mật thiết với hồ ao và vườn cây, vườn cảnh tạo khối hình hoành tráng giữa thiên nhiên. Đến cuối thế kỷ XVIII, ngôi chùa với mặt bằng chữ Tam ra đời song được quây lại theo chữ Công, các nếp nhà đều chồng diêm với hai tầng mái và tám hoa đao. Kiến trúc Phật giáo là chùa tháp, nó gắn với làng xóm để giữ mối liên hệ mật thiết với dân làng, cả khi có sự bảo trợ của nhà nước hay của quý tộc, thì ngôi chùa vẫn là trung tâm văn hóa tôn giáo của địa phương. Ngôi chùa “đóng kín” ở nơi thờ nhưng lại “mở” với sự hòa quyện nội và ngoại thất, con người ở đây lúc nào cũng gần gũi thiên nhiên với một cuộc sống hướng thiện.
Tác giả Nguyễn Đăng Duy trong sách Phật giáo với văn hóa Việt Nam (NXB. Hà Nội, 1999) cho biết khá rõ về đặc điểm kiến trúc ngôi chùa ở từng miền qua các thời đại. Đó là sự hoàn thiện ngôi chùa nội Công ngoại Quốc vào thế kỷ XVII, kết quả đỉnh cao của truyền thống dựng chùa thờ Phật bằng kiến trúc gỗ của người Việt trên đất Bắc. Đó là sự xuất hiện ngôi chùa chữ Khẩu ở miền Trung. Mặt trước, tòa chánh điện thờ tiền Phật hậu tổ, hai dãy nhà hai bên là nhà khách, nhà tăng, dãy nhà hậu phía sau thờ các vong Phật tử. Tất cả bao quanh một sân có bể cạn, hòn non bộ, cây cảnh. Ở miền Nam, tác giả lại chia nhóm chùa kiến trúc gỗ, nhóm chùa kiến trúc gạch đá xi măng và nhóm chùa mang tính chất công viên Phật giáo. Tác giả cũng giới thiệu về kiến trúc ngôi chùa Khmer. Chánh điện thường hình chữ nhật, bố trí điện thờ theo chiều dọc của kiến trúc. Các ngôi chánh điện không những mở nhiều cửa sổ, mà bốn mặt bao giờ cũng tạo hành lang bao quanh cao, rộng, thoáng.
Qua ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu và với thực tế ngôi chùa ở nuớc ta hiện nay, chúng ta thấy rằng không có một kiểu mẫu nào cho ngôi chùa Việt Nam cả. Mỗi thời đại, ngôi chùa có một số đặc điểm kiến trúc riêng. Mỗi địa phương cũng tùy theo những điều kiện địa lý mà có kiểu kiến trúc chùa phù hợp. Ngày nay, các hệ phái Phật giáo cũng có những kiểu kiến trúc khác nhau.
Ở bài này, chúng tôi chọn một số ngôi chùa tiêu biểu của ba Hệ phái Phật giáo Bắc tông, Nam tông, Khất sĩ để giới thiệu những nét chung nhất trong kiến trúc ngôi chùa ở nước ta.
II. NHỮNG NGÔI CHÙA PHẬT GIÁO BẮC TÔNG TIÊU BIỂU
Miền Bắc có chùa Hoa Yên, Yên Tử ở Quảng Ninh; chùa Phật Tích, chùa Pháp Vân (chùa Dâu), chùa Ninh Phúc (chùa Bút Tháp) ở Bắc Ninh; chùa Phổ Minh, chùa Thần Quang (chùa Cổ Lễ) ở Nam Định; chùa Vĩnh Nghiêm ở Bắc Giang; chùa Diên Hựu, chùa Trấn Quốc, chùa Chiêu Thiền (chùa Láng), chùa Quán Sứ, chùa Kim Liên ở Hà Nội; chùa Thiên Trù (Hương Sơn), chùa Thiên Phúc (chùa Thầy), chùa Quảng Nghiêm (chùa Trăm Gian), chùa Sùng Nghiêm (chùa Mía), chùa Sùng Phúc (chùa Tây Phương), chùa Thành Đạo (chùa Đậu) ở Hà Tây; chùa Thần Quang (chùa Keo) ở Thái Bình; chùa Phúc Lâm (chùa Dư Hàng) ở Hải Phòng v.v…
Miền Trung có chùa Tịnh Quang ở Quảng Trị; chùa Thiên Mụ, chùa Báo Quốc, chùa Từ Đàm, chùa Thiền Tôn, chùa Từ Hiếu ở Thừa Thiên – Huế; chùa Pháp Lâm, chùa Linh Ứng ở Đà Nẵng; chùa Chúc Thánh ở Hội An, Quảng Nam; chùa Thiên Ấn ở Quảng Ngãi; chùa Thập Tháp Di Đà, chùa Long Khánh ở Bình Định; chùa Bảo Tịnh ở Phú Yên; chùa Long Sơn ở Nha Trang, Khánh Hòa; chùa Phật Quang, chùa Cổ Thạch (chùa Hang) ở Bình Thuận; chùa Khải Đoan ở Đắc Lắc; chùa Bửu Nghiêm ở Gia Lai; chùa Hồng Từ ở Kon Tum; chùa Linh Sơn, chùa Linh Phước, chùa Linh Phong, thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt, Lâm Đồng v.v…
Miền Nam có chùa Huê Nghiêm, chùa Giác Lâm, chùa Giác Viên, chùa Phụng Sơn, chùa Ấn Quang, chùa Xá Lợi, chùa Quán Thế m, chùa Vĩnh Nghiêm, Bát Bửu Phật đài, chùa Viên Giác, thiền viện Vạn Hạnh ở thành phố Hồ Chí Minh; chùa Bửu Phong, chùa Đại Giác, chùa Chúc Thọ, thiền viện Thường Chiếu ở Đồng Nai; chùa Hội Khánh, chùa Châu Thới ở Bình Dương; chùa Vĩnh Tràng ở Tiền Giang; chùa Khánh Quang ở Cần Thơ; chùa Tây An ở Châu Đốc, An Giang; chùa Hải Sơn (chùa Hang), chùa Tam Bảo ở Hà Tiên, Kiên Giang; chùa Đại Tòng Lâm, Ni viện Thiện Hòa, chùa Linh Sơn Bửu Thiền, chùa Hải Vân, Niết Bàn tịnh xá, Thích Ca Phật đài ở Bà Rịa – Vũng Tàu; chùa Linh Sơn Tiên Thạch, núi Bà Đen, Tây Ninh v.v…
Có những ngôi chùa có lịch sử xây dựng hơn một ngàn năm (chùa Pháp Vân, chùa Trấn Quốc); có những ngôi chùa mới được xây dựng những năm gần đây (chùa Viên Giác, chùa Bửu Nghiêm).
Có những ngôi chùa xây trên núi, trên đồi (chùa Hoa Yên, chùa Thiên Mụ, chùa Thiên Ấn, chùa Linh Sơn Bửu Thiền); có những ngôi chùa dựa vào hang đá làm nơi thờ Phật (chùa Cổ Thạch, chùa Hải Sơn). Có những ngôi chùa xây dựng ở miền cao (chùa Khải Đoan, thiền viện Trúc Lâm); có những ngôi chùa xây dựng ở hải đảo (chùa Sùng Hưng, đảo Phú Quốc) v.v…
Có những ngôi chùa dựng nhà trệt, kiến trúc gỗ kéo dài thành nhiều gian, nhiều lớp (chùa Keo, chùa Giác Lâm, chùa Giác Viên); có những ngôi chùa xây dựng bằng vật liệu bền vững như gạch, đá, xi măng (chùa Quán Sứ, chùa Vĩnh Tràng, chùa Tây An). Có những ngôi chùa xây nhiều tầng lầu bằng bê tông cốt sắt (Chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Ấn Quang, chùa Vạn Phật, TP. Hồ Chí Minh); có những ngôi chùa mở rộng vườn cảnh, tạo nhiều tượng và cụm tượng Phật, Bồ tát lộ thiên (chùa Dư Hàng, chùa Long Sơn, chùa Bửu Phong, Thích Ca Phật đài).
Nét chung nhất trong kiến trúc ngôi chùa Phật giáo đi từ ngoài vào là: cổng chùa, sân chùa, tháp, gác chuông, nhà bia, vườn hoa, ngôi chánh điện, nhà thờ tổ, sân thiên tỉnh, nhà tăng, nhà khách, nhà trai, nhà giảng, Tuệ Tĩnh đường, nhà bếp, khu tháp mộ v.v…
Cổng chùa là ranh giới giữa cõi đời và cõi đạo. Có cổng có ba cửa gọi là tam quan (Tam quan hay tam quán được giải thích trong Phật học từ điển (Đoàn Trung Còn, Phật học từ điển, quyển III, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, 1992) như sau: Tam quán là ba mối, ba chỗ quán tưởng). Có chùa xây tam quan hai tầng, tầng trên dùng làm gác chuông (chùa Mía, chùa Đậu), hoặc tầng trên thờ tượng Hộ Pháp (chùa Linh Sơn Đông Thuyền, chùa Linh Phong), thờ tượng Phật (chùa Phụng Sơn), thờ tuợng vị tăng (chùa Vĩnh Tràng) v.v…
Sau cổng chùa là trục chánh đạo dẫn vào sân chùa. Sân chùa trồng nhiều cây có bóng mát. Có chùa ở sân trước có hòn non bộ (chùa Diên Hựu, chùa Ấn Quang), có chùa ở sân trước có hồ sen (chùa Phổ Minh, chùa Từ Hiếu), hoặc hồ nước lớn (chùa Keo, Thái Bình). 1. Không quán (quan): xét ra sự vật đều không có thật tánh, thật tướng, mọi pháp vốn không.
2. Giả quán (quan): xét rằng vạn vật, chư pháp đều biến hóa vô thường, đều là giả, tạm cả.
3. Trung quán (quan): phải quán cho đắc lẽ Trung đạo, không phải không, không phải giả. Đó là chỗ trọng yếu của đạo Phật.
Ở sân trước nhiều chùa có xây tháp thờ Phật (chùa Thiên Mụ), tháp chuông (chùa Xá Lợi), tháp vong (chùa Cổ Lễ); nhà bia (chùa Phổ Minh, chùa Thiên Mụ, chùa Từ Hiếu); tháp chuông và tháp trống (thiền viện Trúc Lâm, thiền viện Thường Chiếu); gác chuông (chùa Trăm Gian, chùa Bút Tháp) v.v…
Cuối sân chùa là nhà bái đường hay tòa thượng điện. Muốn vào chùa thường phải bước lên một số bậc thềm. Nhiều chùa ở trên núi hoặc đồi cao, phải leo lên nhiều bậc cấp hoặc đi cáp treo (chùa Thiên Mụ, chùa Hoa Yên, chùa Linh Sơn Trường Thọ, chùa Linh Sơn Tiên Thạch). Hành lang tiền đường là nơi có nhiều mảng chạm khắc ở đầu kèo, vì kèo, như bức chạm gỗ Đường Tăng đi thỉnh kinh ở chùa Bối Khê, đầu rồng ở chùa Giác Lâm, chùa Giác Viên v.v…
Kiến trúc chính của chùa thường có nhiều căn nhà xây liền nhau hoặc cách nhau bằng những sân nhỏ hoặc sân vuông trồng hoa, cây cảnh, non bộ; ngôi chánh điện có một mái hoặc mái chồng diêm tạo thành những hình dạng kiến trúc thường được gọi là chữ Nhất, chữ Nhị, chữ Tam, chữ Đinh, chữ Công, chữ Môn, chữ Khẩu, chữ nội Công ngoại Quốc v.v…
Ở miền Bắc, kiểu chữ Đinh, chữ Công thường gặp ở chùa làng, quy mô kiến trúc nhỏ. Chùa Diên Hựu xây dạng chữ Đinh. Các chùa xây dạng chữ Tam có quy mô lớn hơn (chùa Thầy, chùa Kim Liên, chùa Tây Phương). Kiểu chùa có quy mô lớn hơn cả là kiểu chữ nội Công ngoại Quốc (chùa Bút Tháp, chùa Trăm Gian, chùa Keo, chùa Phổ Minh … ).
Ở miền Trung, đặc biệt ở Huế, chùa thường được xây kiểu chữ Môn, chữ Khẩu. Tiền đường có mái ngói giả; hai bên là hai lầu chuông trống kiểu tứ giác, có hai tầng mái, đỉnh nóc nhọn thường trang trí hình bình tịnh thủy. Sau tiền đường là chánh điện hay đại hùng bửu điện là một toà nhà lớn, thường ba gian hay năm gian hai chái với kết cấu nhà rường, kèo cột gỗ hoặc cốt sắt giả gỗ. Các gian giữa, truớc thờ chư Phật, Bồ tát; sau thờ chư Tổ. Hai chái tả hữu thường được làm phương trượng của thầy trụ trì hay giám tự ngôi chùa. Sau chánh điện là mảnh sân trồng hoa. Hai bên là hai dãy nhà làm nhà khách, nhà tăng, thiền đường… tạo kiểu chữ Môn. Nếu có thêm một dãy nhà cuối sân làm nhà trai, nhà giảng, nhà linh … tạo kiểu chữ Khẩu. (chùa Báo Quốc, chùa Từ Hiếu, chùa Thiền Tôn…).
Ở miền Nam, các nhà nghiên cứu ít gọi các kiểu kiến trúc trên, mà thường chia dạng chùa kiến trúc cổ làm bằng gỗ, ngói (chùa Giác Lâm, chùa Giác Viên, chùa Phụng Sơn) và dạng chùa kiến trúc mới xây bằng bê tông cốt sắt (chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Ấn Quang, chùa Quán Thế m, Ni viện Thiện Hòa …). Chùa cổ với kiểu vì kèo nhà đâm trính một gian hai chái, thường có 36 cột, 4 cột cái ở giữa tạo bờ nóc ngắn, dạng gần hình vuông, có tài liệu gọi là chùa tứ trụ. Chùa thường có các căn nhà nối tiếp nhau theo kiểu nhà xếp đọi, tạo thành dạng chữ Nhị (chùa Phụng Sơn), dạng chữ Tam (chùa Giác Lâm). Chùa ở nông thôn Nam Bộ còn giữ nhiều nét của chùa cổ. Có nhiều chùa xây tiền đường theo nhiều kiểu, ảnh hưởng kiến trúc các nước Trung Hoa, Campuchia, Ấn Độ… (chùa Phước Hưng, chùa Tiên Châu, chùa Vĩnh Tràng, chùa Tây An …). Chùa mới được xây dựng với khá nhiều kiểu kiến trúc, khó quy vào vài kiểu kiến trúc như chùa cổ. Chùa ở thành thị, thành phố thường xây lầu, tầng trên làm chánh điện thờ Phật, các tầng dưới làm giảng đường, trai đường …(chùa Xá Lợi, chùa Khánh Quang …).
Khoảng sân, vườn hai bên và phía sau chùa thường có tháp mộ các vị trụ trì và chư Tăng, Ni quá cố.
III. NHỮNG NGÔI CHÙA PHẬT GIÁO NAM TÔNG TIÊU BIỂU
Ngôi chùa Phật giáo Nam tông có hai dạng: chùa Nam tông Việt và chùa Nam tông Khmer.
Chùa Phật giáo Nam tông phát triển ở miền Trung và miền Nam. Ở miền Bắc chỉ có một vị sư đang hành đạo ở chùa Thiên Phúc, Bắc Ninh.
Có 73 ngôi chùa Nam tông Việt và khoảng 500 ngôi chùa Nam tông Khmer.
Ngôi chùa Nam tông Việt đầu tiên là chùa Bửu Quang ở Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh được cụ Nguyễn Văn Hiểu cho xây dựng vào năm 1938. Hòa thượng Hộ Tông trụ trì đầu tiên sau thời gian học đạo tại chùa Unalom ở Campuchia. Một số ngôi chùa nổi tiếng khác ở TP. Hồ Chí Minh là: chùa Kỳ Viên, chùa Phật Bảo, chùa Bửu Long, chùa Giác Quang, chùa Phổ Minh …
Ở Đồng Nai có chùa Bửu Đức, thiền viện Phước Sơn, chùa Tam Phước; ở Bà Rịa – Vũng Tàu có chùa Hộ Pháp.
Ở miền Trung, những ngôi chùa Nam tông nổi tiếng là: chùa Thiền Lâm, chùa Huyền Không, chùa Tăng Quang (Thừa Thiên – Huế); chùa Tam Bảo (TP. Đà Nẵng) v.v…
Kiến trúc ngôi chùa Phật giáo Nam tông Việt thường đơn giản. Chùa Kỳ Viên, tên của ngôi tinh xá thời đức Phật tại thế do ông Cấp Cô Độc dâng cúng, là ngôi chùa trụ sở của hệ phái, tọa lạc ở quận 3, TP. Hồ Chí Minh. Chùa có tam quan, trên đầu bốn trụ có bốn hoa sen nở. Nóc chánh điện có hai mái. Tiền đường có hai mảng tam giác khắc tên chùa. Mảng trên ghi tên chùa: Kỳ Viên Tự; mảng dưới ghi tên chùa bằng tiếng Pàli mẫu tự La tinh: JETAVANA VIHÀRA. Ở cửa vào chánh điện còn có biển tên chùa bằng chữ Hán. Ba cửa vào chánh điện đều xây hình bầu dục, có song sắt hình những chiếc lá bồ đề. Chánh điện thờ Phật theo dạng tam cấp. Tầng cao nhất thờ Xá lợi Phật, các tầng dưới thờ đức Phật Thích Ca.
Ở TP. Biên Hòa, chùa Bửu Đức được xây dựng vào năm 1970 theo kiểu tháp Xá lợi San-chi ở Ấn Độ. Chùa Huyền Không 1 và chùa Huyền Không 2 ở Huế là những ngôi chùa vườn tuyệt đẹp.
Chùa Phật giáo Nam tông Khmer (chùa Khmer) chỉ có ở miền Nam. Những ngôi chùa Khmer nổi tiếng là: chùa Chantarangsay (TP. Hồ Chí Minh); chùa Xvayton (An Giang); chùa Sanghamangala (Vĩnh Long); chùa Angkoreaja Purêy, chùa Kompong Chrêy, chùa Phnôdol, chùa Pôthisalareaj, chùa Samrông Ek (Trà Vinh); chùa Kh’Leang, chùa Mahatup, chùa Sàlôn (Sóc Trăng); chùa Ratanaransĩ (Kiên Giang); chùa Komphisakor Prech Chru (Bạc Liêu) v.v…
Chùa Khmer là cơ sở tín ngưỡng, văn hóa, giáo dục của từng cộng đồng dân tộc Khmer ở Nam Bộ. Đó là công trình tập trung các giá trị nghệ thuật cao nhất của cộng đồng.
Nhìn chung, chùa Khmer là một cụm kiến trúc ẩn mình trong một khu đất rộng với nhiều cây cao bóng cả. Kiến trúc chùa bao gồm: cổng chùa, ngôi chánh điện, các sa la (nhà tăng, nhà hội), tháp cốt, lò thiêu, nhà để ghe ngo …
Cổng chùa Khmer được xây bên lề đường, với nhiều kiểu. Có cổng làm bộ khung bằng gỗ, giữa có lối đi, hai bên là sạp để khách đường xa có thể ngồi nghỉ chân. Có cổng được xây bằng gạch, mái bằng, có bốn hoặc sáu cột. Trên mái là ngôi tháp tứ giác có nhiều tầng hoặc ba tháp tròn ba tầng …
Ngôi chánh điện là công trình kiến trúc quy mô nhất, thường xây dọc, mặt hướng Đông. Chánh điện thường được xây trên hai cấp nền, cao hơn hẳn các công trình khác ở chùa. Quanh cấp nền thấp có xây tường rào, có cổng ra vào. Ngôi chánh điện luôn có các cấp mái, mỗi cấp mái được chia làm ba lớp. Hai mái trên cùng hợp thành một góc 600 ở hai đầu hồi. Trang trí dọc bờ viền mái nóc chùa thường có tượng Niêt Kơ-rêch (rồng). Trong chánh điện thờ nhiều tượng đức Phật Thích Ca. Pho tượng lớn nhất là tượng đức Phật Thích Ca thành đạo.
IV. NHỮNG NGÔI TỊNH XÁ PHẬT GIÁO KHẤT SĨ TIÊU BIỂU
Hệ phái Khất sĩ do Tổ sư Minh Đăng Quang sáng lập từ năm 1944. Hiện nay, hệ phái có hơn 2.000 Tăng Ni xuất gia tu học tại 400 ngôi tịnh xá, tịnh thất ở các tỉnh miền Trung và miền Nam. Ngôi chùa của hệ phái được Tổ sư Minh Đăng Quang gọi là tịnh xá, tức là nơi trú xứ an tịnh, trong sạch.
Danh hiệu của ngôi tịnh xá đều có chữ Ngọc đứng trước. Ý của vị Tổ sư muốn khuyên dạy đệ tử luôn tinh tấn tu học để có được phẩm chất quý như ngọc, hiển lộ được ngọc trong tâm mình. Sau chữ ngọc là một chữ có liên hệ đến địa phương nơi tịnh xá tọa lạc. Ví dụ: Tịnh xá Ngọc Châu (huyện Tân Châu, tỉnh An Giang), tịnh xá Ngọc Vinh (thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh), tịnh xá Ngọc Trang (TP. Nha Trang), tịnh xá Ngọc Nhơn (TP. Quy Nhơn), tịnh xá Ngọc Ban (TP. Buôn Ma Thuột)… Cũng có nhiều tịnh xá không đặt tên như vậy, như: Pháp viện Minh Đăng Quang, tịnh xá Trung Tâm, tịnh xá Lộc Uyển, tịnh xá Kỳ Hoàn (TP. Hồ Chí Minh); tịnh xá Kỳ Viên (An Giang); tịnh xá Kỳ Viên (Bến Tre); chùa Giác Hạnh (TP. Mỹ Tho); chùa Bửu Linh, chùa Giác Quảng (TP. Cần Thơ); chùa Long Hòa (TP. Biên Hòa); tịnh xá Trúc Lâm (Bình Thuận), tịnh xá Linh Giang (Khánh Hòa); chùa Phổ Hiền (Quảng Ngãi) v.v…
Các ngôi tịnh xá được chia ra các giáo đoàn Tăng và Ni như sau:
Về Tăng, có 6 giáo đoàn.
Giáo đoàn 1 có 21 ngôi tịnh xá, tịnh thất. Tổ đình: Tịnh xá Ngọc Viên (Vĩnh Long). Giáo đoàn 2 có 15 ngôi tịnh xá. Tổ đình: Tịnh xá Ngọc Đăng (TP. Hồ Chí Minh). Giáo đoàn 3 có 41 ngôi tịnh xá, tịnh thất. Tổ đình: Tịnh xá Ngọc Tòng (Khánh Hòa). Giáo đoàn 4 có 32 ngôi tịnh xá, tịnh thất. Tổ đình: Tịnh xá Trung Tâm (Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh). Giáo đoàn 5 có 23 ngôi tịnh xá, tu viện. Tổ đình: Tịnh xá Trung Tâm (Quận 6, TP. Hồ Chí Minh). Giáo đoàn 6 có 14 ngôi tịnh xá, tịnh thất. Tổ đình: Tịnh xá Lộc Uyển (Quận 6, TP. Hồ Chí Minh).
Về Ni, có giáo đoàn Ni giới và 3 phân đoàn Ni giới.
Giáo đoàn Ni giới có 164 tịnh xá, tịnh thất. Tổ đình: Tịnh xá Ngọc Phương (Quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh). Phân đoàn 1 Ni giới (Ni trưởng Ngân Liên) có 15 ngôi tịnh xá. Phân đoàn 2 Ni giới (Ni trưởng Trí Liên) có 23 ngôi tịnh xá, tịnh thất. Tổ đình: Tịnh xá Ngọc Phú (Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh). Phân đoàn 3 Ni giới có 27 ngôi tịnh xá, tịnh thất.
Các ngôi tịnh xá tổ đình là những tịnh xá tiêu biểu, nổi tiếng trong hệ thống tự viện ở nước ta.
Tam quan các ngôi tịnh xá thường được xây dựng đơn giản. Thường trên đỉnh tam quan có ngọn đèn Chơn lý thắp sáng (ý pháp tám vạn bốn ngàn pháp môn của chư Phật).
Qua tam quan, sân trước tịnh xá thường tôn trí bảo tượng Bồ tát Quán Thế m. Ngôi chánh điện được xây kiểu bát giác (nét đặc thù kiến trúc của Phật giáo Khất sĩ), chính giữa có tháp tam cấp tôn thờ bảo tượng đức Phật Thích Ca. Sau tượng đức Phật, tôn trí chân dung Tổ sư Minh Đăng Quang. Gian nhà sau chánh điện thờ Cửu huyền thất tổ, chính giữa thờ đức Bồ tát Địa Tạng hoặc bộ tượng Di Đà Tam Tôn (đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế m và Bồ tát Đại Thế Chí). Phía sau ngôi chánh điện còn có nhiều căn nhà dùng làm thiền đường, tăng xá, trai đường, lớp học, phòng phát hành kinh sách…
Hiện nay, chánh điện nhiều ngôi tịnh xá đã xây lầu, tầng trên thờ Phật, tầng dưới làm giảng đường, như tịnh xá Trung Tâm, tịnh xá Ngọc Lâm (TP. Hồ Chí Minh), tịnh xá Ngọc Phúc (Gia Lai), tịnh xá Ngọc Thuận (Tây Ninh), tịnh xá Ngọc Tâm (Long An) v.v…
Đặc biệt, ở sân trước tịnh xá Trung Tâm (Quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh) có bảo tượng Bồ tát Quán Thế m cao 13,50m (kể cả đài sen) đứng trước ngọn giả sơn cao khoảng 15m như ngọn Phổ Đà Sơn thu nhỏ. Đối diện với bảo tượng là bảo tháp Ngọc Phật hình bát giác (bát chánh đạo), có 9 tầng (cửu phẩm liên hoa), cao 37m (ba mươi bảy phẩm trợ đạo), trên đỉnh tháp là đóa sen nâng ngọn đèn Chơn lý. Tầng 9 tôn trí Xá lợi Phật.
Những nét khái quát về những ngôi chùa, tịnh xá của ba hệ phái Phật giáo Bắc tông, Nam tông và Khất sĩ hiện nay đã cho thấy ngôi chùa Phật giáo Việt Nam hiện nay rất đa dạng về kiểu thức kiến trúc, nhất là ngôi chùa Phật giáo Bắc tông.
Ngôi chùa là nơi thờ chư Phật; là nơi tu học, ăn ở của chư Tăng, Ni; là nơi lễ bái, vui hội của tín đồ và du khách gần xa. Xây dựng ngôi chùa là công đức của thập phương bá tánh. Ngôi chùa mang dấu ấn văn hóa của từng thời, từng miền. Ngôi chùa Việt còn tiếp thu những nét kiến trúc đặc sắc ở nhiều nước trên thế giới.
Dù được xây dựng theo kiểu nào, được thờ một tượng Phật hay nhiều tượng chư Phật, Bồ tát, Hộ Pháp, La hán … ngôi chùa Việt Nam từ xa xưa đến ngày nay là nơi chứa đựng nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể của đất nước, là nơi phản ánh nhiều mặt của tâm thức Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Ngôi chùa Việt Nam là ngôi nhà văn hóa từ bi hỷ xả của nguời Việt Nam.
www.chuabuuminh.vn